Pages

Tác phẩm Vợ Nhặt - Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ. Powered by Blogger.

Gợi ý phân tích nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt

Đề bài "Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân". Dưới đây là gợi ý chi tiết, bạn cần phải bám vào các ý chính và triển khai các ý đó một cách hợp lý. Chúc bạn đạt điểm tốt. Bên cạnh nhân vật chính là Tràng, các đề văn thường cũng tập trung vào nhân vật bà cụ Tứ. Bạn có thể tham khảo thêm tại cùng website này.

Mở bài (Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt)

Tràng là nhân vật chính trong Vợ nhặt. Câu chuyện ở đây là câu chuyện của chính anh. Đề yêu cầu phân tích nhân vật, có nghĩa là phân tích toàn diện một con người tron văn học, từ lai lịch, diện mạo cho đến ngôn ngữ, hành động, tâm trạng... Tuy nhiện, anh Tràng là một người lao động rất bình thường, thân phận thấp kém nên khác với bà cụ Tứ, anh ít có những suy nghĩ bên trong. Khi phân tích, tập trung vào mấy điểm:

Thân bài (Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt)

1. Lai lịch, ngoại hình nhân vật Tràng

- Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già. Dân cư ngụ là nhưng người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, dân cư ngụ không có ruộng đất, những thứ vô cùng quan trọng đối với người nôn dân thời xưa. Đã vậy, họ còn bị phân biệt đối xử, thường phải ở nơi bìa làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Nhà cửa của anh ta, cái được gọi là “nhà” thì luôn vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Hơn nữa, vì là dân ngụ cư, Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.

- Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con đuờng khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào bên trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn... Còn đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cuời cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệnh.

2. Tính cách của Tràng

- Tràng là người vô tư, nông cạn.

+ Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn dốc chợ đi xuống là ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên. Rồi chúng, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa k**, đứa lôi chân không cho đi. Khi ấy, Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Anh với lũ trẻ con như anh em, bè bạn và cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút.

+ Ngay cả chuyện quan trong như lấy vợ, Tràng cũng chỉ quyết định trong chốc lát. Đó là lần gò lưng kê cái xe thóc vào dốc tỉnh, Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Chủ tâm của anh ta là vui đùa. Thế rồi, một người đàn bà đang đói bám lấy để được ăn bánh, Tràng cũng vui vẻ chấp nhận. Lần thứ hai, cô ta tới ăn vạ, Tràng chấp nhậ đưa về nhà để thành… vợ chồng! Thật, xưa nay chưa có ai quyết định việc lấy vợ nhanh chóng như Tràng!

- Tràng là người đàn ông nhân hậu phóng khoáng.

+ Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ chấp nhận. Tràng lấy vợ trước hết vì lòng thương đối với một con người đói khát hơn mình.

+ Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê… Anh còn mua 2 hào dầu thắp để vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí.

+ Lấy nhau chẳng phải vì tình, lại “nhặt vợ” một cách dễ dàng, nhưng không vì thế mà Tràng coi thường người vợ của mình. Anh muốn làm cho người ấy được vui (khoe mua dầu về thắp sáng), có lúc muốn thân mật nhưng không dám suồng sã. Tràng trân trọng, nâng niu hạnh phúc mà mình có được: Trong lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghò khổ ấy, nó ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt ve nhẹ trên sống lưng.

- Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm.

+ Anh ngoan ngoãn với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Đặc biệt, đối với Tràng, có vợ là bước sang một quãng đời khác: Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa trong mơ đi ra.

+ Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ cua anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm keo nhau đi trên đê Sốp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to lắm. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới... Tràng đã mở đầu cho câu chuyện Vợ nhặt bằng những bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào buổi chiều chạng vạng mặt người và cũng chính anh đã kết thúc câu chuyện ấy vào buổi sớm mai với một hình ảnh mới lạ về đoàn người nghèo đói vùng lên dưới bóng lá cờ đỏ bay phất phới.

3. Số phận của nhân vật Tràng

- Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Khi chưa có nạn đói thì nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ (con trai lão Hạc trong tác phẩm cùng tên Nam Cao cũng vì nghèo không lấy vợ, phẫn chí mà bỏ đi làm mộ phu), trong nạn đói lại lấy vợ, niềm hạnh phúc đan xen với bất hạnh.

- Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột biến của cả xã hội sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự thay đổi đó, nhưng cuộc sống đã bắt đầu hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với cách mạng một cách tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi và trong thực tế lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi.

4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn thể hiện qua nhân vật Tràng

- Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động, đặc biệt là diễn biến tâm trạng của Tràng bằng ngòi bút sắc sảo. Anh chàng phu xe cục mịch nhưng có một đời sống tâm lý sống động, khi hãnh diện cái mặt vênh vênh tự đắc với mình bởi vừa mới nhặt được vợ, lúc lật đật chạy theo người đàn bà, như người xấu hổ chạy trốn, hay lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia, cũng có khi lòng quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, chie còn tình nghĩa. Anh thô kệch nhưng không sỗ sàng, trái lại biết ngượng ngiụ, biết sợ, nhất là biết lo nghĩ cho cuộc sống về sau.

Kết bài (Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt)

Qua nhận vật Tràng, không những nhà văn phản ánh một mặt trận đen tối trong hiện thực xã hội trước năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo mà còn phát hiện vẻ đẹp tâm hồn cua họ. Kim Lân đã tiếp nối những trang viết giàu chất nhân bản về người lao động bình thường của những nhà văn trước đó như Ngô Tất Tố, Thạch Lam, Nam Cao...

Gợi ý phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt của Nam Cao

Bài văn mẫu Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ Nhặt của Nam Cao được sưu tầm từ website Violet.vn của La Điện Minh Phát. Theo đánh giá cá nhân đây là một bài văn hoàn chỉnh, đủ ý, cách triển khai ý rất hay. Hy vọng giúp ích cho các bạn.

Mở bài (Phan tich nhan vat ba cu Tu)

Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê, lam lũ hồn hậu, chất phác mà giàu tình yêu thương. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc hoạ tình cảnh thê thảm của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945 đồng thời khẳng định, ca ngợi tình yêu thương, đùm bọc, khát khao hạnh phúc, hướng đến tương lai của những người dân lao động. Trong đó nhân vật bà cụ Tứ được nhà văn khắc hoạ rất sinh động, tinh tế, là một người mẹ nghèo khổ, trải đời, giàu tình yêu thương và có nội tâm phong phú, phức tạp.

Goi y phan tich nhan vat ba cu Tu
Goi y phan tich nhan vat ba cu Tu


Thân bài (Phan tich nhan vat ba cu Tu)

Nhà văn Kim Lân rất am hiểu nông thôn và đời sống của nhân dân nên ông có những trang viết sâu sắc, cảm động. Truyện Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí) được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân. Thiên truyện có một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì trước Cách mạng). Hoà bình lập lại, Kim Lân viết lại. Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật.

Tác phẩm dã tái hiện lại bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Ông đặc tả chân dung người năm đói “khuôn mặt hốc hác u tối”, “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người”. Nhưng quan trọng hơn, bên cạnh mảng tối của bức tranh hiện thực buồn đau là mảng sáng của tình người, của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết, cảm động.

Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai.

Thể hiện sâu sắc cho tư tưởng ấy là chân dung tính cách, tâm lý của bà cụ Tứ trước tình huống bất ngờ: con trai mình đột ngột có vợ.

Tâm lí ở bà cụ Tứ có phần phức tạp, với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng trải và nhân hậu.

Khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng trước một sự việc dường như không hiểu được. Cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu là một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?” Rồi lại:”Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”. Sự ngạc nhiên này thể hiện nỗi đau của người viết: chính là sự cùng quẩn của hoàn cảnh đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm trước việc con trai yêu quý của mình có vợ.

Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão”cúi đầu nín lặng”. Sự nín lặng đầy nội tâm. Đó là nỗi niềm xót xa, lo, thương trộn lẫn của bà cụ. Tình thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao: “… chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Trong chữ “chúng nó” người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu. Trong chữ cúi đầu, bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh.

Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt. Bà mẹ: nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái
út, nghĩ đến nỗi khổ đời của mình, nghĩ đến tương lai của con…, để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu thương trong một câu nói giản dị:”chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…” Trên ngổn ngang những nỗi buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh lên. Cảm động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ… nồi cháo cám. Hãy nghe người mẹ nói: “chè đây – Bà lão múc ra một bát – chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ “ngon”này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt. Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chính mình cho cái chất người: trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt, con người muốn sống cho ra sống, và cái chất người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hi vọng. Nhưng Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với miếng cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”.


Kết bài (Phan tich nhan vat ba cu Tu)

Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân đạo ; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

Phân tích nhân vật Thị trong Vợ Nhặt

Phan tich nhan vat Thi trong Vo Nhat
Tác phẩm Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân
Văn mẫu đề "Phân tích nhận vật Thị hay người vợ hay vợ nhặt trong tác phẩm Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân". Tham khảo thêm các bài viết về phân tích nhân vật bà cụ Tứ, phân tích nhân vật Tràng.

Mở bài (Phân tích nhân vật Thị, người vợ"


  • Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám.
  • Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Đây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu (1945) của nước ta.
  • Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình ảnh của nhân vật người vợ nhặt: nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt .Điều đó được thể hiện qua việc chị chấp nhận theo không một người đàn ông về làm vợ giữa ngày đói.

Thân bài (Phân tích nhân vật Thị, người vợ"

Trước hết, về cảnh ngộ, xuất hiện trong tác phẩm


  • Người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh: không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp… Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị”- một cách gọi phiếm định giành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệp như chị.
  • Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấyhiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn : đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao,ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa.

Về tính cách nhân vật Thị


  • Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh : Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng.Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon. Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói.Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người.Nói điều này, chắc chắn nhà văn thật sự xót xa và cảm thông cho cảnh ngộ đói nghèo của ngườilao động.
  • Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang. + Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng ( thị đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn” , ngượng nghịu,“chânnọ bước díu cả vào chân kia”...)à thật tội nghiệp cho cảnh cô dâu mới theo chồng về nhà : một cảnh đưa dâu không xe hoa, chẳng pháo cưới mà chỉ thấy những khuôn mặt hốc hác u tối của những người trong xóm và âm thanh của tiếng quạ, tiếng khóc hờ người chết tang thương…Sau một ngày làm vợ, chị dậy sớm, quét tước, dọndẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình – hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo.Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.

Kết bài (Phân tích nhân vật Thị, người vợ"


  • Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng.
  • Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình.Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ bên bờ của cái chết….

Gợi ý phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ - Vợ Nhặt

Gợi ý phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ - trong tác phẩm Vợ Nhặt của Nhà văn Kim Lân.

(Sưu tầm từ tuyensinh247.com)

Mở bài: (Phan tich ba cu tu)

Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, viết về cuộc sống ngột ngạt của nhân dân ta mà tiêu biểu là gia đình bà cụ Tứ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Ngòi bút nhân đạo của Kim Lân vừa thể hiện ở sự phát hiện khẳng định vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu sau cái bề ngoài xác xơ vì đói khổ của nhân vật. Trong ba nhân vật của truyện (bà cụ Tứ, Tràng và người đàn bà vợ Tràng), bà cụ Tứ, mẹ Tràng, là nhân vật có tâm trạng phức tạp mà nhân hậu vô cùng đã thể hiện nổi bật nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động trong tác phẩm. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã diễn tả rất thành công trạng thái tâm lí đó.
Nhan vat ba cu Tu
Vợ Nhặt - Kim Lân

Thân bài: (Phan tich ba cu tu)


 A. Sự ngạc nhiên đến sững sờ của nhân vật bà cụ Tứ

Tình huống đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ấy là việc con trai mình đã lấy vợ. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân chẳng xong. Tràng còn dám lấy vợ, rước thêm miệng ăn. Khi bà cụ đi làm về muộn, thấy người đàn bà ngồi ở đầu giường con mình bà rất ngạc nhiên, càng ngạc nhiên hơn khi được người đàn bà chào bẳng u và được Tràng giới thiệu: “Kìa nhà tôi nó chào u”.."Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”. Bà ngạc nhiên đến mức không còn tin được vào mắt và tai mình nữa: “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt minh nhoèn thì phài. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu”.

B. Tâm trạng Vừa mừng vừa tủi của bà cụ Tứ

  • Khi đã vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt" được vợ, bà “cúi đầu nín lặng. Bà cụ liên tưởng đến bao cơ sự “oái ăm” “ai oán” “xót thương" cho số kiếp của đứa con mình. Bà liên tưởng đến người chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời, lòng bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa.
  • Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không lo nổi vợ cho con. Giờ đây giữa lúc người chết đói "như ngả rạ" lại có người theo con trai bà về làm vợ. Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn. Biết lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng khi con đã có vợ. Bà cụ Tứ khóc vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu không biết làm sao vượt qua nỗi khó khăn này.
  • "Trong kẽ mắt kém nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt". “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!..” “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...” . "Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Bao nhiêu tình yêu thương chân thành tha thiết của người mẹ thể hiện trong những lời giản dị mộc mạc ấy.
  • Bà cụ Tứ xót xa thương dâu, thương con, tủi phận mình: Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng". Bao nhiêu lo lắng ngổn ngang trong lòng.

C. Nỗi lo của nhân vật bà cụ Tứ

Bà cụ Tứ lo lắng thực sự cho con trai, con dâu, lo cho cái gia đình nghèo túng của bà giữa lúc đói kém này liệu có nuôi nổi nhau? Tương lai rồi sẽ ra sao. . Bà chấp nhận cái “hạnh phúc” oái oăm éo le của gia đình. Ngẫm cái phận nghèo bà tự nhủ: “Có gặp bước khó khăn, đói khổ này người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được...". Bà chỉ biết khuyên con, khuyên dâu thương yêu nhau, ăn ở hoà thuận với nhau để cùng vượt qua cơn khốn khó. Đó là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng sâu thẳm đối với con mình. Trong sự lo lắng tủi hờn vẫn nhen nhóm một niềm tin.

D. Niềm tin của bà cụ Tứ

  • Trong cái mừng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui của bà cụ. Một niềm vui tội nghiệp không sao cất cánh lên được, cứ bị cái buồn, cái lo níu kéo xuống. Nhưng bà cụ Tứ cố vui và gắng làm cho con, cho dâu vui.
  • Vui trong ý nghĩ tốt đẹp về tương lai: “Rồi ra may mà ông giời cho khá..." ai giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này’’.
  • Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa. Bà cụ giẫy cỏ cho sạch vườn. “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cừa".
  • Vui trong bữa cơm sáng, bữa cơm đầu tiên có con dâu đó là một bữa “tiệc" với món cháo loãng và món “chè khoán” đắng chát - một bữa ăn ngày đói rất thảm hại nhưng bà cụ cố tạo ra niềm vui để động viên an ủi con trai, con dâu.
  • Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt, ngặt nghèo đến tàn bạo đã đầy đoạ mẹ con bà. Bà vẫn cố tạo không khí hoà thuận ấm cúng trong gia đình và kể chuyện làm ăn, nuôi gà... tươi cười đon đả múc cho con dâu những bát cháo cám.
  • Tuy nhiên cái vui ấy, dù là rất nhỏ bé mà vẫn mong manh, vẫn chìm đi trong cái tăm tối hiện tại: Tiếng khóc, mùi đốt đống rấm ờ những nhà có người chết đói. Bà cụ nghĩ đến ông lão, đến đứa con út, đến cuộc đời cực khổ dài dặc dặc của mình, đến cái “đói to" trước mắt. Bà cụ phấp phỏng nghĩ về con trai, về con dâu.
  • Nhân vật bà cụ Tứ mang nét đạo lí truyền thống: Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ, với “cái mặt bủng beo, u tối” bà vẫn nung nấu một ý chí sống mãnh liệt. Bà là hiện thân của những người mẹ nghèo khổ mà từng trải, hiểu biết: hết lòng thương yêu con, yêu thương những cảnh đời tội nghiệp, oái oăm. Bà nung nấu một khát vọng về cuộc sống gia đinh hạnh phúc.

Kết bài: (Phan tich ba cu tu)


Qua nhân vật bà cụ Tứ, với những diễn biến tâm trạng phức tạp - dưới ngòi bút nhân đạo của Kim Lân - nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động của “Vợ nhặt” đã động chạm đến nơi sâu thẳm nhất của lòng người, bắt độc giả phải khóc, phải cười, phải sống cùng nhân vật của mình.

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ Nhặt

Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.

(Sưu tầm từ website: loigiaivan.com)

Mở bài: (Phan tich nhan vat ba cu Tu)

Trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân, bà cụ Tứ là một nhân vật phụ xuất hiện ở phần cuối truyện. Nhưng với hình ảnh nhân vật này, Kim Lân đã giúp cho tác phẩm của mình có một chiều sâu, mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm, đồng thời “hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945” cũng mang đến cho người đọc một cách nhìn mới mẻ về lòng khao khát sự sống và hạnh phúc của những người nông dân nghèo khổ.

Thân bài: (Phan tich nhan vat ba cu Tu)

 Nếu diễn biến tâm trạng của Tràng và vợ Tràng được nhà văn miêu tả theo một đường thẳng thoáng lo âu buồn tủi rồi đi ngay đến niềm vui bất tận, thì bà cụ Tứ được Kim Lân miêu tả tâm trạng gấp khúc, đan xen nhiều tâm trạng từ quá khứ đến hiện tại và hướng tới tương lai. Bà cụ Tứ được đặt trong hoàn cảnh là con trai mình đột ngột có vợ. Tình huống này khiến bà vừa vui vừa buồn, vừa lo lắng lại vừa hy vọng. Thứ nhất, bà cụ Tứ thể hiện tâm trạng ngạc nhiên , ngỡ ngàng bật ra hàng loạt các câu hỏi khi thấy người đàn bà lạ ở trong nhà mình: “người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào đứng ngay ở đầu giường con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?…”.
Phan tich ba cu tu - vo nhat - Kim Lan
Nhân vật bà cụ Tứ

Thứ hai, đó là tâm trạng băn khoăn ngồi xuống giường khi nghe con trai bà xác nhận là người đàn bà ấy được anh nhặt về làm vợ thì bà hiểu ra cơ sự, bà xúc động đến lặng người. Bà lão cúi đầu nín lặng không nói được gì khi thấy con mình bất chấp cái đói để thực hiện ước mơ hạnh phúc khiến bà vừa xót thương cho số kiếp con trai mình bao nhiêu lại vừa ai oán tủi thân tủi phận mình bấy nhiêu, vì bà là mẹ mà không lo nổi hạnh phúc cho con mình. “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. Đọc những dòng này ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa. Việc trọng đại cả đời con lẽ ra “làm được dăm ba mâm mới phải”, nhưng “nhà mình nghèo quá” nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ không thực hiện được.  Đồng thời như một điều ngẫu nhiên, bao nỗi niềm lo lắng cho con “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này không?”. Nhưng trước khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc của con lòng bà trào dâng bao tâm trạng đồng cảm, trước hết là đồng cảm với người vợ nhặt để trả cho thị giá trị làm người “người ta có gặp lúc khó khăn đói khổ người ta mới lấy con mình”. Sau đó là sự đồng cảm với con trai “nhờ đói mà con mình mới có vợ được”, từ sự đồng cảm trái tim bà dâng trào tình yêu thương con trai, con dâu mãnh liệt “chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”.


Nhưng vượt lên trên tất cả là niềm vui niềm hạnh phúc tràn trề thể hiện qua câu nói đầy lòng vị tha nhân hậu “các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Trong khoảnh khắc sung sướng hạnh phúc vì con có đôi có lứa người mẹ không chỉ nghĩ đến hiện tại mà còn hướng các con đến tương lai phía trước – một tương lai không phải cho bà mà là cho con cháu, bà truyền cho con cái niềm lạc quan hy vọng “không ai khó ba đời” rồi đến hành động “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”, những dự định nào là ngăn buồng cho đôi trẻ, nào mua đôi gà…Ta phát hiện ra rằng chính bà lại là người nói đến tương lai nhiều hơn cả. Không đơn thuần chỉ là tâm lý lạc quan khỏe khoắn của người lao động mà đó là niềm ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa hơn cho con cái của người mẹ nghèo. Chính niềm tin và sức sống của bà đã tiếp thêm sức mạnh để người mẹ lo được một bữa cơm ngày đói đón nàng dâu mới mặc dù nó rất thảm hại: chỉ có một bát rau chuối thái rối, một dúm muối ăn với nồi cháo cám. Nhưng hơn cả là tấm chân tình của người mẹ, chân tình ấy đã khiến bữa cháo thành bữa tiệc, khiến nồi cháo “chát xít, nghẹn bứ trong miệng mà ngon ngọt trong lòng”. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng vui vẻ khi bà lão “lễ mễ” bưng nồi cháo cám “nghi ngút khói” lên nhà, đon đả tươi cười múc cho con và bảo: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem”.

Dường như bà cố ý xua đi không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh để động viên con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy ta biết lòng người mẹ đang thổn thức. Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa. Nhưng niềm vui của bà biết bao giờ mới thành sự thật khi vẫn còn đó nồi cháo cám, vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập, “bà không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”, còn người đọc thì cảm nhận rõ những giọt nước mắt trong lòng bà.

Kết bài: (Phan tich nhan vat ba cu Tu)


Qua hình tượng bà cụ Tứ với biết bao tâm trạng đan xen trong tình huống “nhặt vợ” của con trai, Kim Lân đã khẳng định tình cảm thiết tha với những tấm lòng người mẹ, điều này khiến hình ảnh bà cụ Tứ trở nên chân thật và cảm động hơn bao giờ hết. Phải chăng chính người mẹ già ấy lại là ánh sáng xua tan đi cái bóng tối bi thảm của những kiếp đời nghèo khổ.